
"Tông
Huấn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô được viết dưới ánh sáng của sự vui
mừng, để tái khám phá nguồn mạch của truyền giảng Tin Mừng trên thế giới
đương đại. Có thể tóm tắt nội dung tài liệu mới này của Đức Giáo Hoàng
Phanxicô ban cho Hội Thánh để xác định những đường lối mà mục vụ phải đi
theo trong tương lai trước mắt.
Đây là một sự mời gọi để tìm lại một nhãn quan tiên tri và tích cực của
thực tế, không vì thế mà trốn tránh khó khăn. Đức Thánh Cha khuyến
khích chúng ta và chỉ cho chúng ta nhìn về phía trước, xa hơn cả cái
thời khủng hoảng này, một lần nữa dùng cây thập giá và sự sống lại của
Đức Kitô làm ngọn cờ chiến thắng (85).Nhiều lần, Đức Giáo Hoàng đã viện
dẫn những Đề nghị của Thương Hội Đồng (THĐ) năm 2012, cho thấy sự đóng
góp của THĐ đã quan trọng nhường nào trong việc soạn thảo tông huấn này.
Tuy nhiên, tài liệu còn đi xa hơn kinh nghiệm của THĐ. Đức Giáo Hoàng không những đã để lại dấu ấn của kinh nghiệm mục vụ của bản thân
trong văn kiện này, mà còn mời gọi hãy đón nhận thời gian ân điển mà
Giáo Hội đang sống, để tiến lên, với đức tin, lòng xác tín và sự phấn
khởi, giai đoạn mới của truyền giảng Tin Mừng. Lấy lại giáo huấn của Evangelii nuntiandi của ĐGH Phaolô VI, ngài đặt lại vào trung tâm con người của Chúa Giêsu Kitô, nhà truyền giáo đầu tiên, Đấng kêu gọi chúng ta hãy cùng với Ngài, tham gia vào công trình cứu độ (12). Đức Thánh Cha khẳng định hoạt động
truyền giáo là thế giới của mọi công trình của Giáo Hội (15). Bởi vậy,
chúng ta phải đón nhận thời gian thuận lợi này để phân định và sống giai
đoạn mới của giảng truyền Tin Mừng (17) đang kết hợp chung quanh 2 đề
tài làm nên cái nền của tông huấn này. Một mặt, Đức Giáo Hoàng Phanxicô
nói với các Giáo Hội đặc biệt đang phải đương đầu với những thách thức
và những cảnh huống riêng của từng bối cảnh văn hóa, để các Giáo Hội này
có thể định rõ công việc tân Phúc Âm hóa trong các nước của họ. Mặt
khác, Đức Giáo Hoàng chỉ rõ mẫu số chung, để cho tất cả Giáo Hội, và mỗi
nhà truyền giáo, có thể chấp nhận một phương pháp chung, dấu chỉ của
Phúc Âm hóa là con đường mà nhiều người cùng đi, không bao giờ đi lẻ
loi. Bảy
điểm được gom lại trong 5 chương của bản tông huấn, làm thành cái nhìn
của Đức Giáo Hoàng về tân Phúc Âm hóa : Sự cải tổ Giáo Hội trên con
đường sứ vụ, những cám dỗ của những người làm mục vụ, Giáo Hội được hiểu
như toàn thể dân Thiên Chúa đang loan truyền Phúc Âm, bài giảng và việc
soạn thảo nó, sự hội nhập xã hội của những người nghèo, hòa bình và đối
thoại xã hội, những động cơ tinh thần của sự dấn thân truyền giáo. Quan
hệ giữa tất cả những đề tài này là tình yêu thương xót của Thiên Chúa, là Đấng đến gặp mỗi người để thể hiện trung tâm của mạc
khải, đời sống của mỗi người tìm được ý nghĩa trong sự gặp gỡ với Chúa
Giêsu Kitô và trong niềm vui mừng được chia sẻ kinh nghiệm yêu thương
này với người khác (8).
Chương
thứ nhất triển khai sự cải tổ Giáo Hội trên con đường sứ vụ, được kêu
gọi phải ra khỏi chính mình để đi gặp gỡ người khác. Đức Giáo Hoàng biểu
lộ trong đó động lực của sự vượt thoát và ân điển được tượng trưng bởi
sự đi ra khỏi chính mình, của việc bước đi và gieo rắc mãi mãi và mãi
mãi đi xa hơn (21). Giáo Hội phải nhận lấy làm của riêng mình sự thân
thiết với Chúa Giêsu, Đấng vốn là sự thân mật lưu động
(23). Như chúng ta từ nay đã quen thuộc với chuyện này, Đức Giáo Hoàng
nói nhiều hơn với những thành ngữ tượng hình và tạo ra những từ mới để
làm cho chúng ta hiểu rõ bản chất của Phúc Âm hóa. Trong những từ mới
này, có từ "Primerear", nghĩa là Thiên Chúa đi trước chúng ta trong yêu
thương, chỉ cho Giáo Hội con đường phải đi. Giáo Hội không phải ở trên
con đường cụt tăm tối, mà đang đi theo chân Đức Kitô (x.1 Pr 2, 21), và
như vậy, Giáo Hội xác tín chắc chắn về con đường mình đi. Vì vậy Giáo Hội bước
tới không sợ hãi. Giáo Hội biết mình phải đi gặp, phải tìm những người ở
xa, phải đến tận những ngã tư đường để mời gọi những người bị loại trừ. Ước
muốn của Giáo Hội là đề nghị lòng thương xót bao la (24). Để đi trên con
đường này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh trên "sự trở lại mang tính
mục vụ, vốn muốn nói, khởi đi
từ một nhãn quan thư lại, tĩnh tại và hành chánh của mục vụ, đi đến một
viễn cảnh truyền giáo, nơi mà mục vụ đang ở trong tình trạng thường
xuyên rao truyền Phúc Âm (25). Cũng như có những cấu trúc giúp đỡ và ủng
hộ mục vụ truyền giáo, rất tiếc có "những cấu trúc Giáo Hội có thể đặt
điều kiện cho động lực rao truyền Phúc Âm" (26). Sự hiện hữu của những
cung cách thực hành mục vụ cổ lỗ, héo úa bắt buộc sự sáng tạo phải suy
nghĩ lại Phúc Âm hóa. Theo chiều hướng này, Đức Giáo Hoàng khẳng định rằng sự ấn định mục tiêu mà không có công việc tìm kiếm cùng cộng đồng những phương tiện phải sử dụng để đạt tới thì chỉ là
hoang tưởng (33). Như vậy, phải tập trung vào cốt lõi (35) và phải biết
rằng chỉ có một tầm vóc hệ thống, có nghĩa là thống nhất, cấp tiến và
tương ứng với đức tin, có thể giúp đỡ chúng ta. Giáo Hội phải có thể
thiết lập một trật tự các chân lý và quan hệ của mình với trung tâm của
Phúc Âm (37-39). Chúng ta phải tránh rơi vào cái bẫy của một sự giới
thiệu đức tin chỉ dưới một khía cạnh luân lý, mà xa dần tính cách trung
tâm của tình yêu thương. Trong trường hợp trái ngược, lâu đài luân lý
của Giáo Hội có nguy cơ sụp đổ như một lâu đài xây trên cát, và điều này
là mối nguy hiểm lớn (39). Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh để người ta tìm
được sự cân bằng giữa nội dung đức tin và ngôn ngữ để diễn tả ra. Sự
cứng ngắc mà người ta muốn sao cho ngôn ngữ phải chính xác, đôi khi có
thể làm hại đến nội dung vì tách xa cách nhìn đích thực của đức tin
(41). Đoạn quan trọng của chương này là số 32, là chỗ Đức Giáo Hoàng chỉ
rõ sự cấp bách phải đi tới trong một số viễn cảnh của Công Đồng
Vaticanô II. Đặc biệt là vấn đề ngôi vị tối thượng của Người Kế Vị thánh
Phêrô và của các HĐGM. Trước đó thì trong Ut Unum sint, ĐGH Gioan
Phaolô II cũng đã yêu cầu sự giúp đỡ để hiểu rõ hơn các mục tiêu của Đức
Giáo Hoàng trong cuộc đối thoại đại kết. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đi
theo cùng hướng này và tự hỏi nếu một sự giúp đỡ như thế có thể không
đến từ một sự tiến hóa của quy chế các HĐGM. Một đoạn khác (38-45) đặc biệt quan trọng về những hậu
quả liên quan đến mục vụ. Cốt lõi của Tin Mừng nằm trong những giới hạn
của ngôn ngữ con người. Tín lý chui vào trong cái lồng của ngôn ngữ, như
cách nói quen thuộc của nhà triết học Wittgenstein, khiến cho phải có
nhận định giữa cái nghèo nàn cùng những giới hạn của ngôn ngữ, và sự
phong phú -nhiều khi còn chưa biết hết- của nội dung đức tin. Mối nguy
có thực khi Giáo Hội không chú tâm đến động lực này. Trên một số lập
trường, nó có thể xẩy đến như một sự tù túng và một sự xơ cứng của thông
điệp Tin Mừng, và không nhìn thấy được sự triển khai riêng biệt của
mình.

Truyền
giảng Phúc Âm là sứ vụ của cả dân Thiên Chúa, không hạn chế. Nó không
thể chỉ dành hay ủy nhiệm cho một nhóm riêng biệt. Tất cả mọi người đã
chịu Phép Rửa đều có liên quan trực tiếp với sứ vụ này. Trong chương thứ
ba của tông huấn, Đức Giáo Hoàng đã giải thích sự triển khai và những
giai đoạn của nó. Trước tiên, người ta thể hiện rõ vị trí tối thượng của
ân điển luôn tác động trong đời sống của mọi người truyền giáo (112).
Tiếp đến là vai trò của các nền văn hóa khác nhau trong tiến trình hội
nhập văn hóa Phúc Âm, và nguy cơ rơi vào sự thiêng liêng hóa kiêu ngạo
của nền văn hóa riêng của mình, đã được triển khai (117). Sau cùng,
người ta nói đến vai trò cơ bản của sự gặp gỡ cá nhân (127-129) và của
sự làm chứng cho sự sống (121). Người ta nhấn mạnh về giá trị của lòng
sùng đạo quần chúng, nơi thể hiện đức tin đích thực của biết bao người
đã cống hiến chứng minh cho tính đơn sơ trong cuộc gặp gỡ với tình yêu
của Thiên Chúa (122-126). Để chấm dứt, Đức Giáo Hoàng mời gọi các thần
học gia hãy gia tăng giá trị cho những hình thức loan truyền Phúa Âm
(133), và đã dừng lại khá lâu trên bài giảng lễ như là hình thức ưu việt
của Phúc Âm hóa, và đòi hỏi một sự đam mê và một tình yêu thực sự đối
với Lời của Thiên Chúa và với dân chúng được trao gửi cho chúng ta
(135-158).
Chương
thứ tư được dành cho tầm vóc xã hội của Phúc Âm hóa. Đó là chủ đề Đức
Giáo Hoàng Phanxicô rất ưa thích bởi vì nếu tầm vóc này không được kể
đến một cách rõ ràng, người ta có nguy cơ bóp méo ý nghĩa chính đáng và
toàn diện của sứ vụ rao truyền Phúc Âm (176); Đó là chủ đề quan trọng
của quan hệ giữa loan truyền Phúc Âm và cổ vũ sự sống con người trong
tất cả những biểu hiện của nó. Sự phát triển toàn diện của mọi con người
ngăn cản chúng ta giam hãm tôn giáo như một chuyện riêng tư, không có
hậu quả nào trên đời sống xã hội và công cộng. Một "đức tin đích thực
luôn kéo theo một ước muốn sâu xa thay đổi thế giới (183). Có hai chủ đề
lớn làm thành đoạn này của tông huấn. Đức Giáo Hoàng nói đến chúng với
một sự đam mê to lớn mang tính Phúc Âm, ý thức rằng có ảnh hưởng đến
tương lai nhân loại : Sự hội nhập
xã hội của người nghèo, của hòa bình và của đối thoại xã hội. Liên quan
đến điểm đầu, Giáo Hội, qua Tân Phúc Âm hóa cảm thấy nhiệm vụ của mình
là hợp tác để giải quyết những nguyên nhân cụ thể của sự nghèo khổ và để
cổ vũ sự phát triển toàn diện người nghèo, cũng như thực hiện những
cử chỉ liên đới đơn giản và hàng ngày đối diện với sự cùng khổ cụ thể
"đang bầy ra trước mắt chúng ta mỗi ngày" (188). Điều toát ra từ những
trang viết dày đặc, chính là lời kêu gọi hãy nhận biết "sức mạnh cứu độ"
của những người nghèo, và phải là trung tâm của đời sống Giáo Hội với
cuộc Tân Phúc Âm hóa (198). Như thế, chúng ta phải trước hết tái khám
phá sự quan tâm, sự cấp bách, sự ý thức của đề tài này, trước mọi kinh
nghiệm cụ thể. Theo Đức Giáo Hoàng Phanxicô, không phải chỉ có thực hiện
sự lựa chọn cơ bản người nghèo, mà sự lựa chọn này trước hết phải là
một ưu tư thiêng liêng và tôn giáo và vì thế mang tính ưu tiên (200).
Trên những đề tài này, lời Đức Giáo Hoàng rất thẳng thắn và không quanh
co. Vị mục tử của một Giáo Hội không biên giới (210), không được phép
nhìn ra chỗ khác. Vì vậy, ngài mạnh mẽ yêu cầu hãy xem xét vấn đề những
người di dân và đưa ra cách rõ ràng những hình thức nô lệ mới. Đâu là kẻ
giết người hàng ngày trong xưởng lậu nhỏ bé, trong hệ thống mại dâm,
trẻ em bị dùng để đi ăn xin, nơi người phải đi làm lậu bởi vì không có
giấy tờ hợp pháp ? Chúng ta đừng tự lừa dối. Có nhiều sự
đồng lõa (211). Bằng hàng nghìn cách, Đức Giáo Hoàng bảo vệ sự sống con
người từ lúc mới bắt đầu và phẩm giá của mọi con người (213). Trên khía
cạnh thứ nhì, ngài trình bày 4 nguyên tắc vốn là mẫu số chung cho sự
tiến triển của hòa bình và sự thể hiện hòa bình trong xã hội. Có lẽ, khi
nhớ lại lúc học tập về thần học gia Romano Guardini, Đức Giáo Hoàng
Phanxicô dường như đã tạo ra một sự đối lập phân cực mới. Ngài nhắc là
thời gian cao hơn không gian, sự hợp nhất ở trên tranh chấp, thực tế
quan trọng hơn ý kiến, và tổng thể cao hơn các bộ phận. Điều này đưa
chúng ta tới sự đối thoại như là đóng góp tiên khởi cho hòa bình, và có
liên quan, trong tông huấn, đến khoa học, đại kết và quan hệ với các tôn
giáo ngoài Kitô giáo.
Chương sau cùng nói về tinh thần của Tân Phúc Âm hóa (260). Sự tái rao
truyền Phúc Âm triển khai dưới tác động của Chúa Thánh Thần là Đấng
thúc đẩy, theo cách luôn mới mẻ, nhiệt tình truyền giáo, xuất phát từ
đời sống cầu nguyện trong đó chiêm niệm giữ vị trí trung tâm (264). Đức
Trinh Nữ Maria, ngôi sao của Tân Phúc Âm hóa, được trình bày trong kết
luận như là thần tượng của sự loan báo và sự truyền bá Phúc Âm mà Giáo
Hội được kêu gọi phải sống với sự phấn khởi và trong tình yêu thương của
Chúa Giêsu. Chúng ta đừng để bị cướp mất niềm vui rao giảng Tin Mừng !
(83). Ngôn ngữ của tông huấn này trong sáng và trực tiếp, không dài dòng
không ẩn ý. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đi thẳng vào trung tâm các vấn đề
của con người ngày hôm nay, đang yêu cầu Giáo Hội nhiều hơn là một sự
hiện diện. Giáo Hội được yêu cầu canh tân các dự án của mình và sự tiến
hành mục vụ trong chiều hướng của cuộc Tân Phúc Âm hóa. Phúc Âm phải
được gửi đến tất cả mọi người, không riêng gì ai. Tuy nhiên, một số
người, một số người được ưu đãi. Không ngờ vực gì nữa, Đức Thánh Cha xác
định trong phương hướng của ngài : Không phải chỉ những bạn bè và những
người hàng xóm giầu có, mà thay vào đó là những người nghèo, người tàn
tật, những người thường bị hạ giá trị và lãng quên… không nghi ngờ hay
giải thích gì
có thể làm suy yếu đi thông điệp rất trong sáng này (48). Cũng như
trong những thời điểm quan trọng khác của lịch sử Giáo Hội, Giáo Hội
ngày nay cảm thấy sự cần thiết phải có một cái nhìn chú ý để loan truyền
Phúc Âm dưới sự soi sáng của thờ lậy, với cái nhìn chiêm niệm này để
thấy được những dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Các dấu chỉ thời
đại không chỉ được khuyến khích, mà con trở thành những tiêu chuẩn của
một sự làm chứng hiệu nghiệm (71). Là người đầu tiên trong chúng ta, Đức
Giáo Hoàng Phanxicô nhắc nhở chúng ta mầu nhiệm trung tâm của đức tin
chúng ta : Chúng ta đừng rời xa sự sống lại của Chúa Giêsu, chúng ta
đừng bao giờ tự coi là thua cuộc, điều gì phải đến, sẽ đến (3). Giáo Hội
mà
Đức Giáo Hoàng Phanxicô muốn là người đồng hành với những người đương
đại của chúng ta để đi tìm Thiên Chúa và ước mong được thấy Ngài".
Quý vị Độc giả có thể đọc toàn bộ tông huấn này bằng nhiều ngôn ngữ tại http://www.vatican.va
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét